Than nhập khẩu và ngành than đá trước năm 1975 có những thay đổi gì ?

Trước 1975, nhiên liệu cho nhà máy điện vẫn chủ yếu là than đá nội địa tại mỏ than Quảng Ninh. Nhà đèn Vườn hoa là một trong những nhà máy nhiệt điện than đầu tiên của Việt Nam được người Pháp xây dựng. Tiếp sau đó, tại các khu vực khác trên lãnh thổ Việt Nam như Bắc Bộ, Trung Bộ đều xuất hiện các nhà máy nhiệt điện với quy mô nhỏ, khoảng 10 MW, cũng như các nhà máy có thông số nhỏ hơi lần lượt được xây dựng.
Tổng công suất nguồn điện tại khu vực miền Bắc đạt khoảng 31,5 MW vào tháng 10 năm 1954, với sản lượng điện khoảng 53 triệu kWh/năm. Trong giai đoạn 1955 – 1960, nhằm phục vụ cho sản xuất – sinh hoạt cũng như mục đích quân sự thì Việt Nam đã khởi công xây dựng và cho đi vào hoạt động một số nhà máy nhiệt điện mới có công suất nhỏ và vừa, thông số hơi trung áp (áp suất/nhiệt độ đến 3,43 MPa (35 bar)/435 độ C), công nghệ lò ghi xích và lò than phun.
Năm 1961, Việt Nam khởi công xây dựng nhà máy nhiệt điện than Uông Bí, đây được xem là nhà máy chủ lực, cung cấp đủ lượng điện cho toàn bộ khu vực miền Bắc. Ngoài ra, vào năm 1974, nhà máy nhiệt điện than Ninh Bình với công suất đạt được khoảng 100 MW cũng được đưa vào vận hành. Đây là một bước tiến lớn của ngành nhiệt điện nước nhà khi liên tiếp các nhà máy điện than có công suất lên tới hàng trăm MW được Việt Nam đầu tư xây dựng.
Hoà bình được thiết lập, tại khu vực miền Nam, với sự xuất hiện của các nhà máy điện than đá với tổng công suất hơn 250 MW góp phần cung cấp đủ lượng điện cho cả nước. Trong đó, quy mô lớn nhất phải kể đến là Nhiệt điện Thủ Đức với công suất lên đến hơn 165 MW.
Ngành than đá từ năm 1976 đến 2010 phát triển như thế nào ?
Giai đoạn I từ năm 1981-1985, nhà nước tăng cường sử dụng than đá nhập khẩu từ Trung Quốc và than nội địa để khắc phục tình trạng mất cân đối trầm trọng về cung cầu điện. Bên cạnh đó, các tỉnh miền Bắc cũng tập trung xây dựng các nhà máy nhiệt điện từ nguồn lượng mà than đá mang lại, trong đó điển hình là nhà máy Phả Lại 1 gồm 4 tổ máy (4×110 MW) và thực hiện sửa chữa, nâng cấp các nhà máy khác. Nhờ tăng gia sản xuất mà trong giai đoạn II, từ 1980 – 1990, sản lượng điện sản xuất của các nhà máy nhiệt điện than luôn chiếm khoảng 40% tổng sản lượng toàn hệ thống điện.
Trong giai đoạn III, từ năm 1990 đến 2010 do sự phát triển của thuỷ điện mà nhiệt điện bị chững lại nhưng không đồng nghĩa với thụt lùi. Kết quả là chỉ có thêm 5 nhà máy điện quy mô vừa và lớn được đưa vào vận hành thương mại trong vòng 20 năm, cung cấp khoảng 10-16% tổng sản lượng điện toàn quốc.
Ngành than đá từ năm 2011 đến nay có những thay đổi quan trọng nào?
Giai đoạn 2011- 2020, đất nước tăng cường giao thương với nước ngoài làm lượng than đá nhập khẩu vào Việt Nam cũng từ đó mà tăng lên đáng kể. Theo dự đoán của các chuyên gia đến hết năm 2020, tổng công suất điện năng thu được từ các nhà máy nhiệt điện khoảng 26.000 MW (chiếm 42,7% công suất điện trên toàn hệ thống). Đặc biệt từ 2011, nhiều nhà máy nhiệt điện than với công suất lớn ( dao động từ 600 – 1.200 MW) liên tục được đưa vào vận hành trải dài trên khắp cả nước. Điều đó càng chứng minh được nhiệt điện từ than đá giữ một vai trò quan trọng, là nguồn điện chủ lực, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia Việt Nam.
Đi đôi với sự phát triển về số lượng các nhà máy là chất lượng ( công suất) vận hành các nhà máy nhiệt than mới được xây dựng, dẫn chứng điển hình là việc vận hành các tổ máy với hiệu suất, độ an toàn cũng như tính kinh tế cao. Các nhà máy nhiệt điện than mới được đầu tư các công nghệ đốt than đá hiện đại như cận tới hạn, siêu tới hạn… Việt Nam cũng đã ứng dụng thành công hệ thống điều khiển và tự động hóa các NMNĐ than.
Ngoài nâng cao số lượng và chất lượng của các NMNĐ than thì việc được đầu tư công nghệ xử lý môi trường hiện đại cùng với hiệu quả cao như: hệ thống ESP lọc bụi tĩnh điện, khử SOx, NOx…, đáp ứng các quy định theo tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam. Vấn đề đảm bảo môi trường trong quá trình vận hành NMNĐ than ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và thực hiện rất hiệu quả.
Ngành công nghiệp nhiệt điện “sạch” từ than đá tại Việt Nam trong tương lai

Cũng như Nhật Bản, Việt Nam cũng là quốc gia sử dụng phần lớn than đá, đã và đang chú trọng đến việc sử dụng công nghệ và thiết bị xử lý khí thải tại các nhà máy nhiệt điện than nhằm kiểm soát chất lượng không khí tại khu vực quanh nhà máy. Các nhà chế tạo thiết bị nhiệt điện than luôn ưu tiên phát triển công nghệ sử dụng than nhiệt lượng thấp, hàm lượng lưu huỳnh cao, nhưng vẫn có khả năng giảm đáng kể các khí độc hại phát tán ra môi trường như NOx, SO2, CO2…
Hiện nay, công nghệ lò hơi cận tới hạn và siêu tới hạn là 2 trong số công nghệ được ứng dụng nhiều nhất vào thực tế bởi vì sử dụng các công nghệ mới này có thể nâng hiệu suất phát điện lên tới 42,5%, tiêu hao nhiên liệu chỉ ở mức 0,425 kg/kWh, đồng nghĩa với việc phát thải ít.
Theo các chuyên gia về nhiệt điện than cho biết, điểm mới của công nghệ này so với USC là có thể nâng cao hiệu suất phát điện khoảng từ 46-50%. Đặc biệt, có thể tách và thu hồi lượng khí CO2 cao hơn nhiều so với nhiệt điện than thông thường, giảm 20% lượng phát thải CO2 từ than đá so với công nghệ USC.